Nguyên lý Sóng Elliott là gì?
Vào những năm 1930, Ralph Nelson Elliott đã phát hiện ra rằng các làn sóng tăng/giảm (waves) trên thị trường chuyển động tuân theo một số quy luật và mẫu hình nhất định. Ông gọi chung những quy luật đó là Nguyên lý Sóng. Mỗi làn sóng tăng/giảm đều có điểm bắt đầu và điểm kết thúc về giá và thời gian có thể dự đoán. Theo Elliott, một mô hình sóng cơ bản bao gồm 5 sóng riêng lẻ được liên kết với nhau tạo thành một làn sóng hoàn chỉnh mang xu hướng tăng hoặc giảm (xem Hình 1).

Chuỗi 5 nhịp sóng đầu tiên được đánh số từ 1 đến 5 và được gọi chung là Sóng đẩy (Motive Waves) do có xu hướng vận động thuận theo xu hướng chính.
Sau khi hoàn thành chuỗi 5 sóng đẩy, sóng điều chỉnh (Corrective Waves) bắt đầu. Sóng điều chỉnh sẽ thoái lui, tức là giảm trở lại sau một làn sóng đẩy mang xu hướng tăng. Sóng điều chỉnh (Corrective Waves) thường tuân theo mô hình có cấu trúc 3 sóng. Các sóng của nó được đánh dấu bằng các chữ cái, ví dụ A, B và C (xem Hình 2).

Tất cả các làn sóng là một phần của các sóng khác ở cấp độ lớn hơn – Tính chất Fractal. Tương tự, tại trong mỗi một làn sóng mà ta quan sát được, lại chia thành các sóng ở một cấp độ thấp hơn (như trong Hình 3). Sóng đẩy và sóng điều chỉnh có thể chuyển động tăng hoặc giảm tùy theo xu hướng chính.
Một số Quy tắc (Rules) và Hướng dẫn (Guildlines) – sẽ được trình bày ở bài viết sau, đã được R.N. Elliott và các hậu bối nghiên cứu và áp dụng cho sự hình thành của mô hình sóng Elliott. Từ đó, nó giúp cho các nhà giao dịch sử dụng Nguyên lý sóng Elliott có thể đếm (gắn nhãn) sóng dễ dàng và chính xác hơn.

Tại sao lại là 5-3?
Có phải mô hình Sóng Elliott nhất định phải là 5 sóng và 3 sóng hay không? Trong các nghiên cứu hiện có, R.N Elliott chưa bao giờ suy đoán hay đào sâu vào việc tìm hiểu lý do tại sao hình thái cơ bản của thị trường lại chuyển động theo 5 Sóng đẩy và 3 Sóng điều chỉnh. Ông chỉ đơn giản là phát hiện đó là những gì đã và đang xảy ra.
Mối liên hệ giữa Nguyên lý sóng Elliott và Lý thuyết Dow
Elliott chịu ảnh hưởng rất nhiều từ Lý thuyết Dow, vì vậy Nguyên lý sóng Elliott cũng mang nhiều điểm tương đồng với nó. Trong một lá thư viết cho Collins năm 1934, Elliott đã từng đề cập rằng ông là người sử dụng dịch vụ thị trường chứng khoán của Robert Rhea và sử dụng cuốn sách của Rhea về Lý thuyết Dow. Elliott cho biết Nguyên lý Sóng là một “phụ trương cần thiết của Lý thuyết Dow”.
Hãy nói về mối liên hệ giữa ý tưởng của Nguyên lý sóng Elliott về mô hình 5 sóng tăng và 3 kỳ tăng của Lý thuyết Dow trong thị trường có xu hướng tăng. Có thể thấy, ý tưởng về 3 sóng tăng đi cùng 2 sóng hiệu chỉnh của Elliott tương thích với Lý thuyết Dow. Rõ ràng là chịu ảnh hưởng từ Lý thuyết Dow, tuy nhiên, Elliott tin rằng ông đã vượt ra khỏi Lý thuyết Dow và cải tiến nó. Thật thú vị để lưu ý tới các tác động của khái niệm “biển cả” đối với hai vị học giả này trong việc xây dựng nên các lý thuyết của mình. Dow so sánh những xu hướng sơ cấp, trung cấp, và thứ cấp trong thị trường với những đợt thủy triều, sóng và những làn sóng lăn tăn của biển cả. Còn Elliott thì thích mô tả lý thuyết sóng như những nhịp “thủy triều” – một mô hình thay đổi một cách thường xuyên và lặp đi lặp lại.
Khóa học Phân Tích Kỹ Thuật – CMT Ứng Dụng
Khóa học được Green Chart thiết kế nhằm mục đích giúp học viên hiểu và ứng dụng những kiến thức phân tích kỹ thuật theo tiêu chuẩn CMT vào thực tế phân tích và giao dịch trên thị trường tài chính. Nội dung khóa học bao gồm 08 buổi học với kiến thức đi từ cơ bản đến nâng cao, rất phù hợp cho các nhà giao dịch mới bắt đầu hoặc có mong muốn tìm hiểu về phân tích kỹ thuật. Học viên sau khi tốt nghiệp cũng được trang bị những kiến thức cần thiết cho quá trình tự ôn thi chứng chỉ CMT Level 1+2 nếu có nhu cầu.
Tham khảo thêm về khóa học Tại đây.
(Còn tiếp).
Happy trading !